Hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi
Hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi, nuôi lươn, nuôi dế, nuôi ba ba, nuôi gà, nuôi ếch, nuôi cá sấu, ...
Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2019
Vườn chim Bạc Liêu
Cách thành phố Bạc Liêu 6 km về hướng biển thuộc xã Hiệp Thành, vườn chim Bạc Liêu là nơi làm tổ của nhiều loài chim nước, điển hình là các loài le le, cò, diệc, vạc, còng cọc, quắm đen… Các loài chim thường tụ tập nhiều vào mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Đến với vườn chim Bạc Liêu, thú vị nhất là đứng trên tháp canh cao bằng ngọn cây ngắm cảnh bên dưới.
Thứ Ba, 30 tháng 7, 2019
Đi đến Bạc Liêu bằng phương tiện gì
Xe khách đến Bạc Liêu
Bạc Liêu cách trung tâm Tp.HCM khoảng 290km và mất 5 giờ đi ô tô. Để đến Bạc Liêu bạn có thể chọn những nhà xe uy tín như: Mai Linh, Phương Trang, Hoàng Yến, Kim Yến… có giá vé dao động từ 190.000đồng – 210.000đồng. Chi tiết liên hệ như sau:
- Xe Mai Linh: Tại Tp.HCM số điện thoại liên hệ: (028)37523888; tại Bạc Liêu: (0291)6250555.
- Nhà xe Phương Trang: Tổng đài đặt vé 19006067.
- Nhà xe Kim Yến: chạy tuyến Cà Mau – Bạc Liêu – Cần Thơ – Tp. HCM. Liên hệ tại Tp. Hồ Chí Minh: (028)62783225 – 66513115 – 0913783862. Tại Bạc Liêu: (0291)3956305.
- Nhà xe Tuấn Hưng: chạy tuyến Tp. HCM – Cần Thơ – Cà Mau. Liên hệ: TP. HCM : (028)39636363. Bạc Liêu: (0291)3838383.
- Nhà xe Hảo: chạy tuyến Sài Gòn – Bạc Liêu – Hộ Phòng. Liên hệ Tp.HCM, điện thoại liên hệ: (028)39552755. Tại Bạc Liêu: (0291)3567606 – 0919940990.
//chú ý mã vùng có thể thay đổi theo năm tháng
Bay đến Bạc Liêu
Từ Hà Nội và khu vực phía Bắc, muốn đến Bạc Liêu bạn có thể di chuyển bằng đường hàng không từ sân bay quốc tế Nội Bài (Hà Nội) – Cà Mau với giá vé dao động từ 1.900.000đồng – 2.700.000đồng/chiều.
Đến Cà Mau bạn đón đi xe Phương Trang, Tuấn Hưng, Vũ Linh… từ Cà Mau – Bạc Liêu, tổng thời gian đi lại khoảng 1h30 phút.
Xe máy phượt tự túc tới Bạc Liêu từ Sài Gòn
Xuất phát ở Bình Chánh – tại cầu Bình Thuận, vào QL1A – đi thẳng đến cầu Bến Lức – qua luôn cầu Tân An – đến Long An.- thẳng tiếp đến Tiền Giang – thẳng 16km đến thành phố Mỹ Tho – rẽ phải hướng quốc lộ QL1A – vượt qua cầu Mỹ Thuận – tiếp QL1A – vượt qua cầu Cần Thơ – tiếp QL1A khoảng 10km – Hậu Giang – thẳng theo QL1A qua thị xã Ngã Bảy – qua địa phận Sóc Trăng – đến nơi!
Bạc Liêu cách trung tâm Tp.HCM khoảng 290km và mất 5 giờ đi ô tô. Để đến Bạc Liêu bạn có thể chọn những nhà xe uy tín như: Mai Linh, Phương Trang, Hoàng Yến, Kim Yến… có giá vé dao động từ 190.000đồng – 210.000đồng. Chi tiết liên hệ như sau:
- Xe Mai Linh: Tại Tp.HCM số điện thoại liên hệ: (028)37523888; tại Bạc Liêu: (0291)6250555.
- Nhà xe Phương Trang: Tổng đài đặt vé 19006067.
- Nhà xe Kim Yến: chạy tuyến Cà Mau – Bạc Liêu – Cần Thơ – Tp. HCM. Liên hệ tại Tp. Hồ Chí Minh: (028)62783225 – 66513115 – 0913783862. Tại Bạc Liêu: (0291)3956305.
- Nhà xe Tuấn Hưng: chạy tuyến Tp. HCM – Cần Thơ – Cà Mau. Liên hệ: TP. HCM : (028)39636363. Bạc Liêu: (0291)3838383.
- Nhà xe Hảo: chạy tuyến Sài Gòn – Bạc Liêu – Hộ Phòng. Liên hệ Tp.HCM, điện thoại liên hệ: (028)39552755. Tại Bạc Liêu: (0291)3567606 – 0919940990.
//chú ý mã vùng có thể thay đổi theo năm tháng
Bay đến Bạc Liêu
Từ Hà Nội và khu vực phía Bắc, muốn đến Bạc Liêu bạn có thể di chuyển bằng đường hàng không từ sân bay quốc tế Nội Bài (Hà Nội) – Cà Mau với giá vé dao động từ 1.900.000đồng – 2.700.000đồng/chiều.
Đến Cà Mau bạn đón đi xe Phương Trang, Tuấn Hưng, Vũ Linh… từ Cà Mau – Bạc Liêu, tổng thời gian đi lại khoảng 1h30 phút.
Xe máy phượt tự túc tới Bạc Liêu từ Sài Gòn
Xuất phát ở Bình Chánh – tại cầu Bình Thuận, vào QL1A – đi thẳng đến cầu Bến Lức – qua luôn cầu Tân An – đến Long An.- thẳng tiếp đến Tiền Giang – thẳng 16km đến thành phố Mỹ Tho – rẽ phải hướng quốc lộ QL1A – vượt qua cầu Mỹ Thuận – tiếp QL1A – vượt qua cầu Cần Thơ – tiếp QL1A khoảng 10km – Hậu Giang – thẳng theo QL1A qua thị xã Ngã Bảy – qua địa phận Sóc Trăng – đến nơi!
Kỹ thuật nuôi ếch Thái Lan bằng bể xi măng
Hiện nay, mô hình nuôi ếch bằng bể xi măng được một số nông dân ở Đồng Nai thực hiện. Thuận lợi của mô hình này là không cần nhiều đất, nhanh thu hồi vốn và lợi nhuận đem lại khá cao.
1. Chuẩn bị bể nuôi
– Có thể tận dụng đất dư thừa trong vườn làm bể hoặc chuồng heo đã bỏ nuôi để nuôi ếch. Bể nuôi ếch có diện tích trung bình 6 – 10m2, tường cao 1,2 – 1,5m để tránh ếch nhảy ra. Đáy bể nên làm hơi nghiêng để dễ thay nước. Nên che lưới nylon trên bể để tránh ánh nắng trực tiếp và làm tăng nhiệt độ. Đồng thời, tránh kẻ thù gây hại như: rắn, mèo, chuột, chim cú. Chú ý, bể nuôi ếch không nên che mát hoàn toàn. Trong bể nuôi nên làm thêm một ụ nhỏ hoặc bè cao hơn nền bể 15 – 20cm đủ cho tất cả ếch trong bể có thể trú ngụ để những khi ếch không muốn dầm nước hoặc mực nước trong bể quá cao ếch bị ngộp sẽ lên đó trú.
– Mực nước trong bể nuôi chỉ để ngập một nửa thân ếch. Nên thường xuyên phun nước tưới cho ếch, nhất là vào lúc trưa nắng.
2. Mật độ thả nuôi
– Tháng thứ nhất chỉ thả 150 – 200 con/m2.
– Tháng thứ 2 chỉ để khoảng 100 – 150 con/m2.
– Tháng thứ 3 chỉ để 80 – 100 con/m2.
– Sau khi thả nuôi ếch được khoảng 7 – 9 ngày nên lựa những con ếch lớn vượt đàn đem nuôi riêng để tránh trường hợp con lớn ăn con nhỏ. Nước trong bể nuôi phải thay thường xuyên, có thể dùng nước sông, nước giếng, nước ao để nuôi ếch, song nước phải đảm bảo sạch.
3. Thức ăn và cách cho ăn
– Cho ếch ăn nhiều lần trong ngày. Ếch giống từ 5 – 100 gram cho ăn khoảng 3 – 4 lần/ngày và lượng thức ăn bằng 7-10% trọng lượng của ếch.
– Khi ếch lớn 100 – 250 gram cho ăn 2-3 lần/ngày và lượng thức ăn 3 – 5% trọng lượng của thân.
– Ếch ăn mạnh vào lúc chiều tối và đêm nên ban ngày cho ếch ăn ít, tập trung thức ăn vào tối và đêm cho ếch. Định kỳ bổ sung thêm vitamin C, men tiêu hóa để giúp ếch tăng cường sức khỏe bớt bị bệnh và tiêu hóa tốt thức ăn.
– Có thể dùng cá tạp băm nhỏ, cám nấu chín, thức ăn viên dạng nổi để cho ếch ăn. Ở nước ta chưa có thức ăn chuyên cho ếch, song nông dân có thể sử dụng thức ăn viên nổi cho cá da trơn hay cá rô phi của Công ty Cargill, Blue star, Unipresident. Nếu dùng thức ăn viên nổi nên dùng loại có kích cỡ, hàm lượng protein phù hợp với độ tuổi của ếch. Cụ thể:
– Ếch từ 3-30 gram chọn thức ăn viên có kích thước 2,2 – 2,5 mm và có hàm lượng protein khoảng 35%.
– Ếch 30 – 100 gram dùng thức ăn có kích thước 3 – 4mm, hàm lượng protein là 30%.
– Ếch 100 – 150 gram sử dụng thức ăn có kích thước 5 – 6mm và hàm lượng protein khoảng 25%.
– Ếch lớn hơn 150 gram có thể dùng thức ăn có kích thước 8 -10mm và hàm lượng protein khoảng 22%.
Trung bình cứ 1 kg ếch tăng trọng hết khoảng 1,3 – 1,5kg cám viên.
4. Phòng trừ một số bệnh hay gặp ở ếch
– Ếch nuôi trong bể xi măng có mật độ dày thường mắc một số bệnh như: lở loét đỏ chân, sình bụng, mù mắt, quẹo cổ thân có những đốm trắng. Khi mắc các bệnh này nếu không chữa trị kịp ếch sẽ chết rất nhanh. Cách phòng trừ:
– Bệnh lở loét đỏ chân: Do vi khuẩn Aeromonas hydrophila gây ra khi bể nuôi bị dơ bẩn. Ếch bị bệnh này thường có triệu trứng ăn ít, di chuyển chậm, có những nốt đỏ trên thân, chân bị sưng và góc đùi có tụ huyết. Khi mổ bụng ếch ra sẽ thấy xuất huyết trong ổ bụng. Cách phòng bệnh tốt nhất là thường xuyên thay nước và giữ nước nuôi trong bể luôn sạch sẽ. Khi phát hiện ếch có dấu hiệu bị bệnh thì dùng 5 gram thuốc Norfloxaxine trộn lẫn trong 1kg thức ăn cho ếch ăn liên tục trong 5 – 7 ngày. Hoặc dùng 3 – 5gram thuốc kháng sinh Oxytetracycline trộn trong 1kg thức ăn cho ếch ăn trong khoảng 5 – 6 ngày liên tục. Ngoài ra, ngâm ếch trong dung dịch Iodine với dung lượng 10ml/m3 nước.
– Bệnh sình bụng do 3 nguyên nhân: Ếch ăn phải thức ăn ôi, thiu hoặc cho ếch ăn quá nhiều không tiêu hóa được, nguồn nước nuôi dơ vì ít thay. Ếch bị bệnh có triệu chứng bụng trương phồng, nằm nguyên một chỗ, một số con hậu môn lòi ra, ruột bị sưng lên. Cách chữa trị: Ngưng cho ăn 1 – 2 ngày, làm vệ sinh sạch bể nuôi. Sau đó, trộn thức ăn với thuốc Sulphadiazine và trimethroprim với tỷ lệ 4 – 5gram/kg thức ăn và cho ếch ăn trong 5 ngày. Bệnh sình bụng ở ếch có thể phòng bằng cách: định kỳ trộn các men tiêu hóa như Lactobacillus vào thức ăn cho ếch với khối lượng 2 gram/kg thức ăn. Và phải thường xuyên thay nước, giữ bể nuôi, nước trong bể thật sạch.
– Bệnh mù mắt, quẹo cổ: Ếch mắc phải bệnh này mắt bị viêm sưng, sau đó dẫn đến mắt đục và mù cả 2 mắt. Còn bệnh quẹo cổ do cột sống ếch bị biến dạng làm cổ quẹo qua một bên, khi bệnh nặng ếch thường xuyên quay cuồng và chết. Cách chữa trị 2 loại bệnh trên là khử trùng bể bằng thuốc Iodine với liều lượng 5 – 10ml/m3 nước trong bể.
1. Chuẩn bị bể nuôi
– Có thể tận dụng đất dư thừa trong vườn làm bể hoặc chuồng heo đã bỏ nuôi để nuôi ếch. Bể nuôi ếch có diện tích trung bình 6 – 10m2, tường cao 1,2 – 1,5m để tránh ếch nhảy ra. Đáy bể nên làm hơi nghiêng để dễ thay nước. Nên che lưới nylon trên bể để tránh ánh nắng trực tiếp và làm tăng nhiệt độ. Đồng thời, tránh kẻ thù gây hại như: rắn, mèo, chuột, chim cú. Chú ý, bể nuôi ếch không nên che mát hoàn toàn. Trong bể nuôi nên làm thêm một ụ nhỏ hoặc bè cao hơn nền bể 15 – 20cm đủ cho tất cả ếch trong bể có thể trú ngụ để những khi ếch không muốn dầm nước hoặc mực nước trong bể quá cao ếch bị ngộp sẽ lên đó trú.
– Mực nước trong bể nuôi chỉ để ngập một nửa thân ếch. Nên thường xuyên phun nước tưới cho ếch, nhất là vào lúc trưa nắng.
2. Mật độ thả nuôi
– Tháng thứ nhất chỉ thả 150 – 200 con/m2.
– Tháng thứ 2 chỉ để khoảng 100 – 150 con/m2.
– Tháng thứ 3 chỉ để 80 – 100 con/m2.
– Sau khi thả nuôi ếch được khoảng 7 – 9 ngày nên lựa những con ếch lớn vượt đàn đem nuôi riêng để tránh trường hợp con lớn ăn con nhỏ. Nước trong bể nuôi phải thay thường xuyên, có thể dùng nước sông, nước giếng, nước ao để nuôi ếch, song nước phải đảm bảo sạch.
3. Thức ăn và cách cho ăn
– Cho ếch ăn nhiều lần trong ngày. Ếch giống từ 5 – 100 gram cho ăn khoảng 3 – 4 lần/ngày và lượng thức ăn bằng 7-10% trọng lượng của ếch.
– Khi ếch lớn 100 – 250 gram cho ăn 2-3 lần/ngày và lượng thức ăn 3 – 5% trọng lượng của thân.
– Ếch ăn mạnh vào lúc chiều tối và đêm nên ban ngày cho ếch ăn ít, tập trung thức ăn vào tối và đêm cho ếch. Định kỳ bổ sung thêm vitamin C, men tiêu hóa để giúp ếch tăng cường sức khỏe bớt bị bệnh và tiêu hóa tốt thức ăn.
– Có thể dùng cá tạp băm nhỏ, cám nấu chín, thức ăn viên dạng nổi để cho ếch ăn. Ở nước ta chưa có thức ăn chuyên cho ếch, song nông dân có thể sử dụng thức ăn viên nổi cho cá da trơn hay cá rô phi của Công ty Cargill, Blue star, Unipresident. Nếu dùng thức ăn viên nổi nên dùng loại có kích cỡ, hàm lượng protein phù hợp với độ tuổi của ếch. Cụ thể:
– Ếch từ 3-30 gram chọn thức ăn viên có kích thước 2,2 – 2,5 mm và có hàm lượng protein khoảng 35%.
– Ếch 30 – 100 gram dùng thức ăn có kích thước 3 – 4mm, hàm lượng protein là 30%.
– Ếch 100 – 150 gram sử dụng thức ăn có kích thước 5 – 6mm và hàm lượng protein khoảng 25%.
– Ếch lớn hơn 150 gram có thể dùng thức ăn có kích thước 8 -10mm và hàm lượng protein khoảng 22%.
Trung bình cứ 1 kg ếch tăng trọng hết khoảng 1,3 – 1,5kg cám viên.
4. Phòng trừ một số bệnh hay gặp ở ếch
– Ếch nuôi trong bể xi măng có mật độ dày thường mắc một số bệnh như: lở loét đỏ chân, sình bụng, mù mắt, quẹo cổ thân có những đốm trắng. Khi mắc các bệnh này nếu không chữa trị kịp ếch sẽ chết rất nhanh. Cách phòng trừ:
– Bệnh lở loét đỏ chân: Do vi khuẩn Aeromonas hydrophila gây ra khi bể nuôi bị dơ bẩn. Ếch bị bệnh này thường có triệu trứng ăn ít, di chuyển chậm, có những nốt đỏ trên thân, chân bị sưng và góc đùi có tụ huyết. Khi mổ bụng ếch ra sẽ thấy xuất huyết trong ổ bụng. Cách phòng bệnh tốt nhất là thường xuyên thay nước và giữ nước nuôi trong bể luôn sạch sẽ. Khi phát hiện ếch có dấu hiệu bị bệnh thì dùng 5 gram thuốc Norfloxaxine trộn lẫn trong 1kg thức ăn cho ếch ăn liên tục trong 5 – 7 ngày. Hoặc dùng 3 – 5gram thuốc kháng sinh Oxytetracycline trộn trong 1kg thức ăn cho ếch ăn trong khoảng 5 – 6 ngày liên tục. Ngoài ra, ngâm ếch trong dung dịch Iodine với dung lượng 10ml/m3 nước.
– Bệnh sình bụng do 3 nguyên nhân: Ếch ăn phải thức ăn ôi, thiu hoặc cho ếch ăn quá nhiều không tiêu hóa được, nguồn nước nuôi dơ vì ít thay. Ếch bị bệnh có triệu chứng bụng trương phồng, nằm nguyên một chỗ, một số con hậu môn lòi ra, ruột bị sưng lên. Cách chữa trị: Ngưng cho ăn 1 – 2 ngày, làm vệ sinh sạch bể nuôi. Sau đó, trộn thức ăn với thuốc Sulphadiazine và trimethroprim với tỷ lệ 4 – 5gram/kg thức ăn và cho ếch ăn trong 5 ngày. Bệnh sình bụng ở ếch có thể phòng bằng cách: định kỳ trộn các men tiêu hóa như Lactobacillus vào thức ăn cho ếch với khối lượng 2 gram/kg thức ăn. Và phải thường xuyên thay nước, giữ bể nuôi, nước trong bể thật sạch.
– Bệnh mù mắt, quẹo cổ: Ếch mắc phải bệnh này mắt bị viêm sưng, sau đó dẫn đến mắt đục và mù cả 2 mắt. Còn bệnh quẹo cổ do cột sống ếch bị biến dạng làm cổ quẹo qua một bên, khi bệnh nặng ếch thường xuyên quay cuồng và chết. Cách chữa trị 2 loại bệnh trên là khử trùng bể bằng thuốc Iodine với liều lượng 5 – 10ml/m3 nước trong bể.
Làm giàu nhờ nuôi ếch kết hợp ba ba
Ông Nguyễn Thanh Khuê (thôn Thanh Ly 1, xã Bình Nguyên, H.Thăng Bình, Quảng Nam) đã thành công với mô hình nuôi ếch, ba ba kết hợp, giúp thu về hàng trăm triệu đồng mỗi năm.
Ông Khuê đang kiểm tra ếch giống bố mẹ trong trang trại
Đưa chúng tôi tham quan cơ ngơi rộng gần 1.000 m2 với 10 ao xi măng đang nuôi ếch và ba ba, ông Khuê chia sẻ cơ duyên đến với nghề: Một lần xem chương trình “nhà nông làm giàu”, thấy mô hình nuôi kết hợp giữa ếch và ba ba khá hiệu quả của một hộ nông dân ở Cần Thơ. Sau đó tôi tìm đến học một số kỹ thuật cơ bản, rồi đặt mua 100 cặp ếch bố mẹ cùng 50 cặp ba ba giống về nuôi thử nghiệm với giá hơn 100 triệu đồng.
Tuy nhiên, ban đầu nuôi do chưa có kinh nghiệm, nguồn nước không đảm bảo nên số ếch lẫn ba ba đều bị dịch bệnh rồi chết gần hết. Không nản chí, ông tiếp tục vay mượn rồi quay trở lại Cần Thơ chọn mua thêm con giống nuôi. Để trang bị kinh nghiệm cho mình, hằng ngày ông dành 30 phút lên mạng tìm hiểu các mô hình nuôi kết hợp.
Đặc biệt, ông dành gần 1 năm vào Cần Thơ học kinh nghiệm thực tế. Trở về quê nhà, ông Khuê quy hoạch lại trang trại các vùng nuôi ba ba, ếch đảm bảo theo kỹ thuật nuôi riêng với hình thức lấy ngắn nuôi dài. Hiện trang trại ông có hơn 200 cặp ếch bố mẹ (giống Thái Lan) và gần 10.000 con ba ba (giống Đài Loan) các loại.
Cứ một năm nuôi ếch ông cho xuất bán 3 lần, mỗi năm ông cung ứng ra thị trường từ 100.000 - 120.000 con ếch giống với giá 1.200 đồng/con và 4 tấn ếch thịt thương phẩm với giá 40.000 - 50.000 đồng/kg. Còn về ba ba, mỗi năm ông cung ứng ra thị trường từ 7.000 - 8.000 con ba ba giống với giá 12.000 đồng/con (giống 1 tháng nuôi). Tổng doanh thu từ mô hình nuôi ếch và ba ba kết hợp sau khi trừ chi phí giúp ông thu về hơn 300 triệu đồng/năm.
Ông Khuê cho biết: “Nuôi ếch chăm sóc đơn giản, nhưng lợi nhuận cao, nuôi thả đồng lứa và chỉ cần lưu ý một số bệnh thường gặp như bệnh đường ruột, bệnh đầy hơi. Vì vậy phải phòng bệnh kịp thời bằng cách xử lý nước thường xuyên mỗi ngày, không để nước quá bẩn, để đảm bảo ếch không bị dịch bệnh, mà khả năng tăng trưởng nhanh”.
Cũng theo ông Khuê, với ba ba thì thức ăn chủ yếu là cá tạp xay nhỏ, sau hơn 1 năm nuôi ba ba mẹ có thể sinh sản và đẻ trứng. Một con ba ba mẹ có thể đẻ từ 60 - 70 quả trứng, sau khi đẻ ra thì tiến hành cho ấp trứng và bán con giống. Chia sẻ về bí quyết nuôi ba ba thành công, ông Khuê cho biết điều quan trọng nhất là phải đảm bảo nguồn nước sạch. Bên cạnh đó, sau khi bán hết giống thì cần phải xử lý ao nuôi bằng vôi bột, sau đó cho phơi khô khoảng 1 tuần rồi tiếp tục thả con giống. Con giống thả phải đảm bảo mật độ phù hợp, không quá dày.
Ông Khuê cho biết thêm sắp tới sẽ tập trung mở rộng thêm số lượng vật nuôi trong trang trại của mình, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Đồng thời tạo điều kiện về nguồn giống cung ứng cho bà con tại địa phương có nhu cầu nuôi, để cùng nhau làm giàu trên chính quê hương mình.
Ông Khuê đang kiểm tra ếch giống bố mẹ trong trang trại
Đưa chúng tôi tham quan cơ ngơi rộng gần 1.000 m2 với 10 ao xi măng đang nuôi ếch và ba ba, ông Khuê chia sẻ cơ duyên đến với nghề: Một lần xem chương trình “nhà nông làm giàu”, thấy mô hình nuôi kết hợp giữa ếch và ba ba khá hiệu quả của một hộ nông dân ở Cần Thơ. Sau đó tôi tìm đến học một số kỹ thuật cơ bản, rồi đặt mua 100 cặp ếch bố mẹ cùng 50 cặp ba ba giống về nuôi thử nghiệm với giá hơn 100 triệu đồng.
Tuy nhiên, ban đầu nuôi do chưa có kinh nghiệm, nguồn nước không đảm bảo nên số ếch lẫn ba ba đều bị dịch bệnh rồi chết gần hết. Không nản chí, ông tiếp tục vay mượn rồi quay trở lại Cần Thơ chọn mua thêm con giống nuôi. Để trang bị kinh nghiệm cho mình, hằng ngày ông dành 30 phút lên mạng tìm hiểu các mô hình nuôi kết hợp.
Đặc biệt, ông dành gần 1 năm vào Cần Thơ học kinh nghiệm thực tế. Trở về quê nhà, ông Khuê quy hoạch lại trang trại các vùng nuôi ba ba, ếch đảm bảo theo kỹ thuật nuôi riêng với hình thức lấy ngắn nuôi dài. Hiện trang trại ông có hơn 200 cặp ếch bố mẹ (giống Thái Lan) và gần 10.000 con ba ba (giống Đài Loan) các loại.
Cứ một năm nuôi ếch ông cho xuất bán 3 lần, mỗi năm ông cung ứng ra thị trường từ 100.000 - 120.000 con ếch giống với giá 1.200 đồng/con và 4 tấn ếch thịt thương phẩm với giá 40.000 - 50.000 đồng/kg. Còn về ba ba, mỗi năm ông cung ứng ra thị trường từ 7.000 - 8.000 con ba ba giống với giá 12.000 đồng/con (giống 1 tháng nuôi). Tổng doanh thu từ mô hình nuôi ếch và ba ba kết hợp sau khi trừ chi phí giúp ông thu về hơn 300 triệu đồng/năm.
Ông Khuê cho biết: “Nuôi ếch chăm sóc đơn giản, nhưng lợi nhuận cao, nuôi thả đồng lứa và chỉ cần lưu ý một số bệnh thường gặp như bệnh đường ruột, bệnh đầy hơi. Vì vậy phải phòng bệnh kịp thời bằng cách xử lý nước thường xuyên mỗi ngày, không để nước quá bẩn, để đảm bảo ếch không bị dịch bệnh, mà khả năng tăng trưởng nhanh”.
Cũng theo ông Khuê, với ba ba thì thức ăn chủ yếu là cá tạp xay nhỏ, sau hơn 1 năm nuôi ba ba mẹ có thể sinh sản và đẻ trứng. Một con ba ba mẹ có thể đẻ từ 60 - 70 quả trứng, sau khi đẻ ra thì tiến hành cho ấp trứng và bán con giống. Chia sẻ về bí quyết nuôi ba ba thành công, ông Khuê cho biết điều quan trọng nhất là phải đảm bảo nguồn nước sạch. Bên cạnh đó, sau khi bán hết giống thì cần phải xử lý ao nuôi bằng vôi bột, sau đó cho phơi khô khoảng 1 tuần rồi tiếp tục thả con giống. Con giống thả phải đảm bảo mật độ phù hợp, không quá dày.
Ông Khuê cho biết thêm sắp tới sẽ tập trung mở rộng thêm số lượng vật nuôi trong trang trại của mình, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Đồng thời tạo điều kiện về nguồn giống cung ứng cho bà con tại địa phương có nhu cầu nuôi, để cùng nhau làm giàu trên chính quê hương mình.
Kỹ thuật nuôi ba ba thương phẩm
Ba ba thịt còn gọi là ba ba thương phẩm, quy cỡ xuất bán từ 0,4kg trở lên, chủ yếu từ 0,5-0,8kg/con. Hiện thị trường trong nước nhu cầu còn ít, sản phẩm nuôi được chủ yếu để xuất khẩu. Mùa tiêu thụ rải rác quanh năm, nhưng tập trung chủ yếu vào các tháng cuối năm.
Muốn nuôi ba ba thịt lớn nhanh, tỷ lệ sống cao, lãi nhiều, cần thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật sau:
a) Trước khi thả giống cần chuẩn bị ao bể nuôi đảm bảo chất nước và chất đáy sạch.
b) Cần thả giống sớm để tranh thủ nuôi được hết các tháng có nhiệt độ sinh trưởng thích hợp nhất. Các tỉnh phía Bắc thả từ tháng 3, tháng 4, các tỉnh phía Nam thả từ tháng 1, tháng 2 nuôi đến cuối năm thu hoạch.
c) Cỡ giống thả từ 100-200g/con. Trong một ao thả cùng cỡ chọn ba ba giống khoẻ mạnh, không mang mầm bệnh. Người mua ba ba để nuôi nên tìm hiểu kỹ, mua từ các cơ sở dịch vụ giống đáng tin cậy.
d) Mật độ nuôi từ 1-5 con/m2, tối đa 1kg/m2. Điều kiện thay nước chủ động, khả năng cấp thức ăn thoã mãn, nuôi mật độ cao; Điều kiện khó thay nước, khả năng đầu từ về giống có hạn, không có điều kiện cho ăn hàng ngày.... nuôi mật độ thưa.
e) Cho ăn, quản lý chăm sóc và phòng bệnh tốt, sau 8-10 tháng nuôi, ba ba thịt có thể đạt quy cỡ 0,6-1,2kg/con, tỷ lệ sống 90-100%. Nhiều cơ sở nuôi ở phía Nam nuôi lớn nhanh hơn ở phía Bắc, mức tăng trọng trung bình mỗi con có thể đạt 100g /tháng. Ở các tỉnh phía Bắc, mức tăng trọng đàn (tổng trọng lượng ba ba thịt khi thu/tổng trọng lượng ba ba giống khi thả ) sau một vụ nuôi người đạt thấp từ 2-3 lần, người đạt cao từ 4-5 lần.
THỨC ĂN NUÔI BA BA VÀ KỸ THUẬT CHO BA BA ĂN
1. Loại thức ăn: Ba Ba ăn thức ăn động vật là chính.
Thức ăn nuôi Ba Ba có thể chia 3 loại chủ yếu:
- Thức ăn động vật tươi sống.
- Thức ăn động vật khô.
- Thức ăn chế biến hoặc thức ăn công nghiệp.
Cho đến hiện nay, phần lớn các hộ nuôi Ba Ba đều sử dụng thức ăn động vật tươi sống là chính, một số nơi có điều kiện cho ăn thêm thức ăn khô, nói chung chưa có điều kiện sử dụng thức ăn công nghiệp.
2. Thức ăn tươi sống: Gồm động vật còn nguyên con, còn sống hoặc đã chết nhưng thịt còn tươi. Không dùng thịt động vật đã bị ươn ôi và thịt động vật đã ướp mặn không có khả năng rửa sạch mặn. Các động vật, thịt động vật sử dụng làm thức ăn cho Ba Ba gồm:
Cá tươi: các tỉnh phía Bắc thường sử dụng cá mè trắng, cá tép dầu, cá mương, cá lành canh nước ngọt và các loài cá biển vụn. Các tỉnh phía Nam và vùng hồ chứa nước sử dụng nhiều cá Sơn, cá Linh, cá Chốt chuột, cá biển vụn...
Động vật nhuyễn thể: gồm các động vật nhuyễn thể nước ngọt (ốc vặn, ốc sên, ốc đồng, ốc nhồi, trai, hến) và các động vật nhuyễn thể như don, dắt...
Động vật giáp xác: chủ yếu là các loại tôm, cua rẻ tiền, cả ở nước ngọt và nước mặn.
Côn trùng: chủ yếu là giun đất, nhộng tằm. Giun đất có thể nuôi để cho ăn, có thể bắt giun tự nhiên (trong vườn, bãi ven sông...) cho ăn.
Động vật khác: thường là tận dụng thịt của các động vật rẻ tiền không thuộc diện dùng làm thực phẩm cho người, và thịt phế liệu của các xí nghiệp chế biến thực phẩm như cá, tôm, mực, gia súc, gia cầm...
3. Thức ăn khô: Một số nơi có điều kiện có thể sử dụng cá khô nhạt, tôm khô nhạt... loại rẻ tiền để cho ăn kèm thức ăn tươi hàng ngày hoặc dự trữ cho ăn khi thiếu thức ăn tươi.
4. Thức ăn công nghiệp: Nước ta chưa sản xuất thức ăn công nghiệp chuyên dùng cho Ba Ba. Trên thế giới, một số nước đã sử dụng khá phổ biến, hiệu quả kinh tế cao. Thành phần dinh dưỡng trong thức ăn rất toàn diện, đặc biệt hàm lượng đạm rất cao, thức ăn nuôi Ba Ba giống có hàm lượng đạm 50-55%, thức ăn nuôi Ba Ba thịt có hàm lượng đạm trên dưới 45%.
5. Cách cho ăn thức ăn tươi sống:
- Cho ăn theo địa điểm qui định để Ba Ba quen ăn, dễ theo dõi thức ăn hàng ngày, dễ làm vệ sinh khu vực cho ăn.
- Động vật cỡ nhỏ Ba Ba ăn vừa miệng, có thể nuốt được cả con thì cho ăn cả con, động vật cỡ lớn cần băm thái thành nhiều miếng cho Ba Ba ăn đều.
Các phần cứng Ba Ba không ăn được như đầu cá, vây cá, vỏ động vật nhuyễn thể, xương động vật ... nên sử dụng chăn nuôi động vật trên bờ, không bỏ xuống ao làm tăng khả năng ô nhiễm nước ao.
- Rửa sạch thức ăn trước khi cho ăn.
- Ba Ba mới nở ngày cho ăn 3-4 lần, Ba Ba giống 2-3 lần, Ba Ba thịt và Ba Ba bố mẹ 1-2 lần/ ngày, lượng cho ăn buổi tối nhiều hơn buổi sáng.
- Lượng thức ăn cho ăn trong một ngày đêm: Ba Ba mới nở 15-16%, Ba Ba giống 10-12%, Ba Ba thịt và Ba Ba bố mẹ 3-6% so với trọng lượng Ba Ba nuôi trong ao.
- Nên cho ăn nhiều loại thức ăn động vật để bổ sung dinh dưỡng cho nhau. Không nên chỉ cho ăn một thứ duy nhất vì chất dinh dưỡng sẽ không đầy đủ.
- Ba Ba mới nở cho ăn bằng động vật phù du (thuỷ trần), giun nước (trùng chỉ), giun quế. Sau 5-7 ngày nuôi chuyển cho ăn cá, tôm là chính. Nên chọn loại cá nhiều nạc, luộc cá gỡ thịt cho ăn chín tốt hơn cho ăn sống.
- Trong tất cả các giai đoạn ương nuôi, nếu có điều kiện cho Ba Ba ăn giun càng nhiều càng lớn nhanh và béo khoẻ.
- Các ao rộng nuôi Ba Ba với mật độ thưa có thể kết hợp nuôi ốc, nuôi cá tép nhỏ trong ao cho Ba Ba tự bắt ăn dần, không nhất thiết phải cho Ba Ba ăn hàng ngày. Dùng phân chuồng, phân xanh, phân vô cơ để gây nuôi động thực vật làm thức ăn cho ốc, cho cá tép nhỏ, hoặc có thể dùng các loại cám cho cá tép nhỏ ăn trực tiếp. Với cách nuôi này, năng suất Ba Ba nuôi tuy không cao, nhưng Ba Ba lớn nhanh, ít bệnh tật, chi phí thức ăn cho nuôi Ba Ba thấp, hiệu quả kinh tế cao.
Kỹ sư Trương Hoàng Thon với ba ba thương phẩm của mình
Muốn nuôi ba ba thịt lớn nhanh, tỷ lệ sống cao, lãi nhiều, cần thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật sau:
a) Trước khi thả giống cần chuẩn bị ao bể nuôi đảm bảo chất nước và chất đáy sạch.
b) Cần thả giống sớm để tranh thủ nuôi được hết các tháng có nhiệt độ sinh trưởng thích hợp nhất. Các tỉnh phía Bắc thả từ tháng 3, tháng 4, các tỉnh phía Nam thả từ tháng 1, tháng 2 nuôi đến cuối năm thu hoạch.
c) Cỡ giống thả từ 100-200g/con. Trong một ao thả cùng cỡ chọn ba ba giống khoẻ mạnh, không mang mầm bệnh. Người mua ba ba để nuôi nên tìm hiểu kỹ, mua từ các cơ sở dịch vụ giống đáng tin cậy.
d) Mật độ nuôi từ 1-5 con/m2, tối đa 1kg/m2. Điều kiện thay nước chủ động, khả năng cấp thức ăn thoã mãn, nuôi mật độ cao; Điều kiện khó thay nước, khả năng đầu từ về giống có hạn, không có điều kiện cho ăn hàng ngày.... nuôi mật độ thưa.
e) Cho ăn, quản lý chăm sóc và phòng bệnh tốt, sau 8-10 tháng nuôi, ba ba thịt có thể đạt quy cỡ 0,6-1,2kg/con, tỷ lệ sống 90-100%. Nhiều cơ sở nuôi ở phía Nam nuôi lớn nhanh hơn ở phía Bắc, mức tăng trọng trung bình mỗi con có thể đạt 100g /tháng. Ở các tỉnh phía Bắc, mức tăng trọng đàn (tổng trọng lượng ba ba thịt khi thu/tổng trọng lượng ba ba giống khi thả ) sau một vụ nuôi người đạt thấp từ 2-3 lần, người đạt cao từ 4-5 lần.
THỨC ĂN NUÔI BA BA VÀ KỸ THUẬT CHO BA BA ĂN
1. Loại thức ăn: Ba Ba ăn thức ăn động vật là chính.
Thức ăn nuôi Ba Ba có thể chia 3 loại chủ yếu:
- Thức ăn động vật tươi sống.
- Thức ăn động vật khô.
- Thức ăn chế biến hoặc thức ăn công nghiệp.
Cho đến hiện nay, phần lớn các hộ nuôi Ba Ba đều sử dụng thức ăn động vật tươi sống là chính, một số nơi có điều kiện cho ăn thêm thức ăn khô, nói chung chưa có điều kiện sử dụng thức ăn công nghiệp.
2. Thức ăn tươi sống: Gồm động vật còn nguyên con, còn sống hoặc đã chết nhưng thịt còn tươi. Không dùng thịt động vật đã bị ươn ôi và thịt động vật đã ướp mặn không có khả năng rửa sạch mặn. Các động vật, thịt động vật sử dụng làm thức ăn cho Ba Ba gồm:
Cá tươi: các tỉnh phía Bắc thường sử dụng cá mè trắng, cá tép dầu, cá mương, cá lành canh nước ngọt và các loài cá biển vụn. Các tỉnh phía Nam và vùng hồ chứa nước sử dụng nhiều cá Sơn, cá Linh, cá Chốt chuột, cá biển vụn...
Động vật nhuyễn thể: gồm các động vật nhuyễn thể nước ngọt (ốc vặn, ốc sên, ốc đồng, ốc nhồi, trai, hến) và các động vật nhuyễn thể như don, dắt...
Động vật giáp xác: chủ yếu là các loại tôm, cua rẻ tiền, cả ở nước ngọt và nước mặn.
Côn trùng: chủ yếu là giun đất, nhộng tằm. Giun đất có thể nuôi để cho ăn, có thể bắt giun tự nhiên (trong vườn, bãi ven sông...) cho ăn.
Động vật khác: thường là tận dụng thịt của các động vật rẻ tiền không thuộc diện dùng làm thực phẩm cho người, và thịt phế liệu của các xí nghiệp chế biến thực phẩm như cá, tôm, mực, gia súc, gia cầm...
3. Thức ăn khô: Một số nơi có điều kiện có thể sử dụng cá khô nhạt, tôm khô nhạt... loại rẻ tiền để cho ăn kèm thức ăn tươi hàng ngày hoặc dự trữ cho ăn khi thiếu thức ăn tươi.
4. Thức ăn công nghiệp: Nước ta chưa sản xuất thức ăn công nghiệp chuyên dùng cho Ba Ba. Trên thế giới, một số nước đã sử dụng khá phổ biến, hiệu quả kinh tế cao. Thành phần dinh dưỡng trong thức ăn rất toàn diện, đặc biệt hàm lượng đạm rất cao, thức ăn nuôi Ba Ba giống có hàm lượng đạm 50-55%, thức ăn nuôi Ba Ba thịt có hàm lượng đạm trên dưới 45%.
5. Cách cho ăn thức ăn tươi sống:
- Cho ăn theo địa điểm qui định để Ba Ba quen ăn, dễ theo dõi thức ăn hàng ngày, dễ làm vệ sinh khu vực cho ăn.
- Động vật cỡ nhỏ Ba Ba ăn vừa miệng, có thể nuốt được cả con thì cho ăn cả con, động vật cỡ lớn cần băm thái thành nhiều miếng cho Ba Ba ăn đều.
Các phần cứng Ba Ba không ăn được như đầu cá, vây cá, vỏ động vật nhuyễn thể, xương động vật ... nên sử dụng chăn nuôi động vật trên bờ, không bỏ xuống ao làm tăng khả năng ô nhiễm nước ao.
- Rửa sạch thức ăn trước khi cho ăn.
- Ba Ba mới nở ngày cho ăn 3-4 lần, Ba Ba giống 2-3 lần, Ba Ba thịt và Ba Ba bố mẹ 1-2 lần/ ngày, lượng cho ăn buổi tối nhiều hơn buổi sáng.
- Lượng thức ăn cho ăn trong một ngày đêm: Ba Ba mới nở 15-16%, Ba Ba giống 10-12%, Ba Ba thịt và Ba Ba bố mẹ 3-6% so với trọng lượng Ba Ba nuôi trong ao.
- Nên cho ăn nhiều loại thức ăn động vật để bổ sung dinh dưỡng cho nhau. Không nên chỉ cho ăn một thứ duy nhất vì chất dinh dưỡng sẽ không đầy đủ.
- Ba Ba mới nở cho ăn bằng động vật phù du (thuỷ trần), giun nước (trùng chỉ), giun quế. Sau 5-7 ngày nuôi chuyển cho ăn cá, tôm là chính. Nên chọn loại cá nhiều nạc, luộc cá gỡ thịt cho ăn chín tốt hơn cho ăn sống.
- Trong tất cả các giai đoạn ương nuôi, nếu có điều kiện cho Ba Ba ăn giun càng nhiều càng lớn nhanh và béo khoẻ.
- Các ao rộng nuôi Ba Ba với mật độ thưa có thể kết hợp nuôi ốc, nuôi cá tép nhỏ trong ao cho Ba Ba tự bắt ăn dần, không nhất thiết phải cho Ba Ba ăn hàng ngày. Dùng phân chuồng, phân xanh, phân vô cơ để gây nuôi động thực vật làm thức ăn cho ốc, cho cá tép nhỏ, hoặc có thể dùng các loại cám cho cá tép nhỏ ăn trực tiếp. Với cách nuôi này, năng suất Ba Ba nuôi tuy không cao, nhưng Ba Ba lớn nhanh, ít bệnh tật, chi phí thức ăn cho nuôi Ba Ba thấp, hiệu quả kinh tế cao.
Nuôi ba ba khổng lồ trong ao bèo, bán thịt, bán giống thu nửa tỷ
Trên vùng đất trũng chiêm khê, mùa úng xã Yên Dương (huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định), anh Lê Hồng Dũng, 42 tuổi ở xóm Tây đã thành công với nghề nuôi ba ba gai. Nhờ nuôi loài ba ba khổng lồ này, gia đình anh Dũng có thêm thu nhập hơn nửa tỷ đồng mỗi năm.
Năm 2004, cùng với nhiều thanh niên địa phương, anh Dũng tìm đến vùng kinh tế mới của tỉnh Sơn La để lập nghiệp. Vốn sẵn nghề gia truyền, anh đã mở một xưởng khai thác và chế biến gỗ ở gần sông Mã.
Trong quá trình sinh sống, làm nghề tại đây, anh nhận thấy con ba ba gai được người dân địa phương nuôi nhỏ lẻ nhưng đem lại hiệu quả kinh tế cao, nghề này có thể phát triển tại quê hương. Từ đó, vừa làm nghề để tích luỹ vốn, anh vừa tìm hiểu kỹ thuật nuôi ba ba gai, nghiên cứu thị trường, chuẩn bị sẵn đầu ra khi về sản xuất tại địa phương.
Anh Lê Hồng Dũng ở xóm Tây, xã Yên Dương kiểm tra chất lượng con giống ba ba gai trước khi xuất bán.
Năm 2007, anh “hồi hương” về quê nhà Hưng Yên và đầu tư cải tạo ao của gia đình nuôi 150 con ba ba gai. Những năm đầu, anh Dũng gặp không ít khó khăn vì vốn ít, chưa có kinh nghiệm nuôi nên đàn ba ba chậm lớn và thất thoát.
Không nản, anh miệt mài tìm kiếm sách báo đọc để học hỏi tích luỹ thêm kinh nghiệm nuôi ba ba gai "khổng lồ", tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật, đi tham quan các mô hình nuôi ba ba gai đạt hiệu quả cao ở các nơi. Năm 2010, anh đấu thầu 2.400m2 đất cấy lúa kém hiệu quả tại xóm Tây để phát triển quy mô nuôi ba ba gai.
Đến nay, số lượng ba ba gai của gia đình anh Dũng đã lên tới gần 1.000 con với 8 ao nuôi ba ba gai thương phẩm và 2 ao ương giống ba ba.
Anh Dũng cho biết: “So với các đối tượng nuôi truyền thống khác, giống ba ba gai này khá dễ nuôi, ít khi bị dịch bệnh, lại cho hiệu quả kinh tế cao. Trung bình nuôi khoảng 3 năm, ba ba sẽ đạt trọng lượng trên 6kg, nếu nuôi tiếp thì mỗi năm trọng lượng ba ba gai sẽ tăng thêm từ 3-5kg, cá biệt có con nặng đến 25kg. Hiện gia đình tôi có hơn 80 cặp ba ba gai bố mẹ, 250 cặp ba ba gai thương phẩm và 360 con ba ba giống”.
Ba ba gai anh Dũng nuôi ở Nam Định có nguồn gốc từ huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Ảnh: IT.
© danviet.vn Ba ba gai anh Dũng nuôi ở Nam Định có nguồn gốc từ huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Ảnh: IT.
Chia sẻ kỹ thuật nuôi ba ba gai, anh Dũng cho biết, trong những tháng đầu sau khi thả con giống, người nuôi cần quan tâm đến việc trị bệnh cho ba ba con, nhất là bệnh nấm, nên thường xuyên dùng thuốc phòng ngừa bệnh, cho ăn đều đủ lượng để ba ba mau lớn.
Ba ba gai là loài ăn tạp, phàm ăn; thức ăn dễ kiếm là các loại phế phẩm gia súc, gia cầm, thuỷ sản nên người nuôi không phải lo thiếu nguồn và tốn chi phí thức ăn. Ba ba gai có thể nuôi trong bể xi măng hoặc trong ao, mật độ thả nuôi hợp lý là 4 con/m2, độ sâu mực nước ao từ 1,5-2m, đáy ao cần thiết kế có độ nghiêng dần về cống thoát nước đảm bảo thuận tiện khâu vệ sinh ao.
Nước trong ao nuôi ba ba gai phải được xử lý đảm bảo an toàn dịch bệnh, vào mùa đông nên thả nhiều bèo tây, giúp hút chất bẩn trong nước và giữ ấm cho ba ba, vào mùa hè thì thả ít bèo để mặt nước thoáng khí cho ba ba phát triển.
Người nuôi ba ba gai phải thường xuyên kiểm tra lượng thức ăn trong ao. Ba ba gai ăn nhiều và nuôi lớn nhanh nhất vào thời điểm từ tháng 3 đến tháng 9 âm lịch. Từ tháng 9 âm lịch, thời tiết trở lạnh, ba ba ăn ít, ngâm mình dưới bùn nên người nuôi tránh cho ăn nhiều lãng phí và dễ gây ô nhiễm nguồn nước do thức ăn tồn đọng.
Theo anh Dũng, nuôi ba ba gai ngoài thu nhập từ bán ba ba thịt, người nuôi cũng có thêm thu nhập từ trứng và con giống.
Anh Dũng cho hay, ba ba gai 4 năm tuổi đã bắt đầu đẻ. Do ba ba không thể tự ấp trứng, người nuôi phải chuẩn bị chuồng ấp trứng, nền chuồng được rải cát và đảm bảo nhiệt độ trung bình từ 28-32 độ C để tỷ lệ ấp nở đạt cao.
Ba ba mẹ mỗi năm đẻ 3 lứa, mỗi lứa trung bình khoảng 30 quả trứng và ấp hơn 60 ngày là nở. Hiện tại, giá ba ba gai giống trên thị trường là 150 nghìn đồng/con. Dịp Tết Kỷ Hợi 2019, gia đình anh xuất bán được hơn 500kg ba ba gai thịt thương phẩm với giá từ 500-700 nghìn đồng/kg. Tính cả bán con giống, trừ chi phí, anh thu về hơn 500 triệu đồng.
Có thể thấy, nuôi ba ba gai mang lại hiệu quả kinh tế cao, ít rủi ro, đầu ra tương đối ổn định nên mô hình nuôi ba ba gai của anh Dũng đã được nhiều hộ trong và ngoài xã tham quan học tập.
Để ba ba gai trở thành đối tượng nuôi phát triển kinh tế hộ thoát nghèo, làm giàu, xã Yên Dương cần chỉ đạo tăng cường hỗ trợ các hộ dân có nhu cầu nuôi tiếp cận các kênh tín dụng để có vốn đầu tư; tổ chức tập huấn phổ biến kiến thức, kinh nghiệm sản xuất; tạo điều kiện cho các hộ có khả năng chuyển sang các vùng quy hoạch sản xuất tập trung xa khu dân cư để mở rộng sản xuất, kinh doanh, đạt hiệu quả kinh tế cao hơn./.
Năm 2004, cùng với nhiều thanh niên địa phương, anh Dũng tìm đến vùng kinh tế mới của tỉnh Sơn La để lập nghiệp. Vốn sẵn nghề gia truyền, anh đã mở một xưởng khai thác và chế biến gỗ ở gần sông Mã.
Trong quá trình sinh sống, làm nghề tại đây, anh nhận thấy con ba ba gai được người dân địa phương nuôi nhỏ lẻ nhưng đem lại hiệu quả kinh tế cao, nghề này có thể phát triển tại quê hương. Từ đó, vừa làm nghề để tích luỹ vốn, anh vừa tìm hiểu kỹ thuật nuôi ba ba gai, nghiên cứu thị trường, chuẩn bị sẵn đầu ra khi về sản xuất tại địa phương.
Anh Lê Hồng Dũng ở xóm Tây, xã Yên Dương kiểm tra chất lượng con giống ba ba gai trước khi xuất bán.
Năm 2007, anh “hồi hương” về quê nhà Hưng Yên và đầu tư cải tạo ao của gia đình nuôi 150 con ba ba gai. Những năm đầu, anh Dũng gặp không ít khó khăn vì vốn ít, chưa có kinh nghiệm nuôi nên đàn ba ba chậm lớn và thất thoát.
Không nản, anh miệt mài tìm kiếm sách báo đọc để học hỏi tích luỹ thêm kinh nghiệm nuôi ba ba gai "khổng lồ", tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật, đi tham quan các mô hình nuôi ba ba gai đạt hiệu quả cao ở các nơi. Năm 2010, anh đấu thầu 2.400m2 đất cấy lúa kém hiệu quả tại xóm Tây để phát triển quy mô nuôi ba ba gai.
Đến nay, số lượng ba ba gai của gia đình anh Dũng đã lên tới gần 1.000 con với 8 ao nuôi ba ba gai thương phẩm và 2 ao ương giống ba ba.
Anh Dũng cho biết: “So với các đối tượng nuôi truyền thống khác, giống ba ba gai này khá dễ nuôi, ít khi bị dịch bệnh, lại cho hiệu quả kinh tế cao. Trung bình nuôi khoảng 3 năm, ba ba sẽ đạt trọng lượng trên 6kg, nếu nuôi tiếp thì mỗi năm trọng lượng ba ba gai sẽ tăng thêm từ 3-5kg, cá biệt có con nặng đến 25kg. Hiện gia đình tôi có hơn 80 cặp ba ba gai bố mẹ, 250 cặp ba ba gai thương phẩm và 360 con ba ba giống”.
Ba ba gai anh Dũng nuôi ở Nam Định có nguồn gốc từ huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Ảnh: IT.
© danviet.vn Ba ba gai anh Dũng nuôi ở Nam Định có nguồn gốc từ huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Ảnh: IT.
Chia sẻ kỹ thuật nuôi ba ba gai, anh Dũng cho biết, trong những tháng đầu sau khi thả con giống, người nuôi cần quan tâm đến việc trị bệnh cho ba ba con, nhất là bệnh nấm, nên thường xuyên dùng thuốc phòng ngừa bệnh, cho ăn đều đủ lượng để ba ba mau lớn.
Ba ba gai là loài ăn tạp, phàm ăn; thức ăn dễ kiếm là các loại phế phẩm gia súc, gia cầm, thuỷ sản nên người nuôi không phải lo thiếu nguồn và tốn chi phí thức ăn. Ba ba gai có thể nuôi trong bể xi măng hoặc trong ao, mật độ thả nuôi hợp lý là 4 con/m2, độ sâu mực nước ao từ 1,5-2m, đáy ao cần thiết kế có độ nghiêng dần về cống thoát nước đảm bảo thuận tiện khâu vệ sinh ao.
Nước trong ao nuôi ba ba gai phải được xử lý đảm bảo an toàn dịch bệnh, vào mùa đông nên thả nhiều bèo tây, giúp hút chất bẩn trong nước và giữ ấm cho ba ba, vào mùa hè thì thả ít bèo để mặt nước thoáng khí cho ba ba phát triển.
Người nuôi ba ba gai phải thường xuyên kiểm tra lượng thức ăn trong ao. Ba ba gai ăn nhiều và nuôi lớn nhanh nhất vào thời điểm từ tháng 3 đến tháng 9 âm lịch. Từ tháng 9 âm lịch, thời tiết trở lạnh, ba ba ăn ít, ngâm mình dưới bùn nên người nuôi tránh cho ăn nhiều lãng phí và dễ gây ô nhiễm nguồn nước do thức ăn tồn đọng.
Theo anh Dũng, nuôi ba ba gai ngoài thu nhập từ bán ba ba thịt, người nuôi cũng có thêm thu nhập từ trứng và con giống.
Anh Dũng cho hay, ba ba gai 4 năm tuổi đã bắt đầu đẻ. Do ba ba không thể tự ấp trứng, người nuôi phải chuẩn bị chuồng ấp trứng, nền chuồng được rải cát và đảm bảo nhiệt độ trung bình từ 28-32 độ C để tỷ lệ ấp nở đạt cao.
Ba ba mẹ mỗi năm đẻ 3 lứa, mỗi lứa trung bình khoảng 30 quả trứng và ấp hơn 60 ngày là nở. Hiện tại, giá ba ba gai giống trên thị trường là 150 nghìn đồng/con. Dịp Tết Kỷ Hợi 2019, gia đình anh xuất bán được hơn 500kg ba ba gai thịt thương phẩm với giá từ 500-700 nghìn đồng/kg. Tính cả bán con giống, trừ chi phí, anh thu về hơn 500 triệu đồng.
Có thể thấy, nuôi ba ba gai mang lại hiệu quả kinh tế cao, ít rủi ro, đầu ra tương đối ổn định nên mô hình nuôi ba ba gai của anh Dũng đã được nhiều hộ trong và ngoài xã tham quan học tập.
Để ba ba gai trở thành đối tượng nuôi phát triển kinh tế hộ thoát nghèo, làm giàu, xã Yên Dương cần chỉ đạo tăng cường hỗ trợ các hộ dân có nhu cầu nuôi tiếp cận các kênh tín dụng để có vốn đầu tư; tổ chức tập huấn phổ biến kiến thức, kinh nghiệm sản xuất; tạo điều kiện cho các hộ có khả năng chuyển sang các vùng quy hoạch sản xuất tập trung xa khu dân cư để mở rộng sản xuất, kinh doanh, đạt hiệu quả kinh tế cao hơn./.
Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2019
Kỹ thuật nuôi dế mèn vừa nhàn vừa cho thu nhập 'khủng'
Trong những năm gần đây món ăn từ côn trùng đã thu hút được rất nhiều thực khách không chỉ ở những nước Châu Âu, Châu Á mà cả ở Việt Nam. Trong các loại côn trùng được sử dụng thì ưa chuộng hơn cả là thịt dế, thịt dế giàu đạm, can-xi, vị ngon không kém các loại thực phẩm khác nên ngày càng được nhiều thực khách tìm đến.
Đặc điểm
Dế mèn (tên khoa học Gryllidae) là một họ côn trùng có chút liên hệ với châu chấu, chúng có thân dẹt và và râu dài. Dế mèn đẻ mỗi lứa nhiều trứng và sau khi đẻ chúng sẽ chết dần. Tuổi thọ của chúng kéo dài từ 2 - 3 tháng tùy thuộc vào từng loại dế.Dế mèn có kích thước trung bình với chiều dài cơ thể khoảng 2cm.
Thích hợp để nuôi kinh doanh, phát triển kinh tế chỉ có 2 loại dế đó là: dế đen, dế trắng vàng. Nuôi 2 loại dế này hiệu quả nhất như sinh trưởng tốt, sống tập trung, thời gian thu hoạch ngắn ngày và có đầu ra tốt nhất. Dế thịt thơm ngon được người dùng ưa chuộng, loại dế này to bằng cỡ ngón tay út, thân mềm, càng không quá cứng nên được các con vật nuôi ăn được.
Trong tự nhiên, dế sinh trưởng, phát triển và sinh sản quanh năm. Dế có bản tính hung hăng nhưng lại thích sống theo bầy đàn, môi trường sống rất đơn giản, không cầu kỳ, có thể ở hang hay trong những đám cỏ khô nên có thể tổ chức chăn nuôi tập trung được, nhưng phải đảm bảo việc chăn nuôi chúng phải tương tự như môi trường thiên nhiên hoang dã.
Công dụng
Trong y học cổ truyền, dế mèn cò vị mặn cay, tính bình và có tác dụng lợi tiểu chữa bí đái. Theo y tổ Tuệ Tĩnh, dế mèn (5 con) sấy khô, tán nhỏ, rây bột mịn, uống với nước bìm bịp sắc lên, uống vào lúc đói có thể chữa bệnh cổ trướng, thở dốc (Nam dược thần hiệu). Theo các tài liệu nước ngoài, dế mèn là loạicôn trùng giàu prôtít, ít chất béo, giúp giảm lượng coletoron trong máu, thịt dế mèn còn được dùng trong các trường hợp chữa chứng nhiễm độc nước tiểu, chữa sỏi thận.
Ngoài công dụng đông y kể trên, trong Dế mèn còn chứa đầy đủ protit, lipit, glucid, nhiều khoáng chất như calci, phospho, kali, mangan, natri, sắt, và các vitamin khác rất cần cho sự phát triển của cơ thể và trí não của cả trẻ em và người lớn.
Cách chọn dế giống và ấp trứng
Dế đực cánh màu nâu pha đen, không bóng mượt, bụng nhỏ hơn, không có máng đẻ trứng. Dế đực kêu để ve vãn con cái.
Dế cái cánh màu đen, bóng mượt, bụng to hơn, có máng đẻ trứng ở phần đuôi, giống cái kim khâu quần áo dể dế cái cắm xuống đất đẻ trứng. Dế cái không kêu được.
Cách chọn dế giống là chọn dế to, khỏe, đầy đủ râu, cánh, chân. Ghép theo tỷ lệ 1 đực với 2 cái. Tùy thuộc hình thức nuôi để các bạn quyết định số lượng dế giống, trong một chậu các bạn để 1 khay nước cho dế uống, 1 khay đất cho dế đẻ, 2 khay đựng thức ăn, 3 cái dế cho dế mèn đậu, trèo leo.
Sau khi dế mọc cánh các bạn chọn và ghép giống.Thường 2 – 3 ngày sau dế cái sẽ bắt đầu đẻ trứng, khi đó các bạn cho khay đất ẩm vào cho dế đẻ. Tôi thường cho khay đất cho dế đẻ từ sáng hôm trước và sáng hôm sau thay bằng khay đất khác. Những ngày đầu tỷ lệ nở của trứng ít hơn do không phải tất cả trứng đều được thụ tinh 100%.
Dế đẻ liên tục đến khi rạc thì chết thường từ 20 đến 30 ngày. Sau khi lấy khay trứng ra xịt nước cho ẩm, sau đó cho vào trong thùng ấp, xếp các khay trứng chồng nên nhau, dùng khăn ẩm để phủ nên.
Nhiệt độ cần cho trứng nở khoảng 24 – 25 độ C. Hàng ngày xịt nước để giữ độ ẩm và nhiệt độ, xịt ngày 2 lần vào mùa hè, 1 lần vào mùa đông, không xịt quá nhiều nước nếu không trứng sẽ dễ bị ung. Sau 9 – 12 ngày dế sẽ nở, các bạn nên ghi nhớ thời gian, hoặc quan sát trứng, để cho khay trứng ra chậu nuôi kịp thời. Trứng nở sau 4 – 5 ngày là hết, bỏ khay đó ra ngoài vét hết đất và tiếp tục cho dế đẻ lần sau. Thường để 2 – 3 khay trứng vào một chậu nuôi như thế vừa đảm bảo mật độ vừa tạo đồng đều cho dế mèn. Không nên để khay trứng đẻ của 2 – 3 ngày khác nhau vào cùng một chậu, như vậy khi dế nở sẽ có con to, con nhỏ không đồng đều.
Kỹ thuật nuôi
Dụng cụ nuôi và hình thức nuôi là khâu quan trọng trong quá trình chăn nuôi dế. Nó không chỉ liên quan đến kinh phí đầu tư trong chăn nuôi mà còn ảnh hưởng đến sản lượng cũng như mức độ hao hụt của dế.
Nuôi trong chậu nhựa: chậu cao 35 – 40cm, đường kính 40 – 50cm, nuôi bằng chậu đỡ tốn diện tích, phù hợp vì giá cả không quá cao, rất tiện ích.
Nuôi trong thùng nhựa: dùng loại thùng 60 lít, nên mua loại có nắp đậy sau đó chọc thủng lỗ nhỏ bằng đầu que diêm lên nắp thùng tạo độ thoáng.
Nuôi trong khay hình chữ nhật và sếp các hộp đè nên nhau để tiết kiệm diện tích phù hợp với nuôi với quy mô lớn. Tuy nhiên đây cũng là hình thức cần đầu tư lớn nhất.
Nuôi trong thùng xốp, thùng bìa cát tông: tuy nhiên cách nuôi này dế sẽ bò được ra ngoài, cắn thủng trốn thoát dễ gây mất mát.
Ngoài ra có thể tận dụng các vật liệu khác để nuôi dế như thùng tôn, thùng gỗ, chum, lu, vại. Rơm, giấy là những vật tạo khoảng không cho dế mèn sinh sống leo trèo, lột xác và trốn tránh kẻ thù. Mỗi lấn lột xác dế rất mèm và thường bị đồng loại cắn, ăn vì thế cần tạo nhiều không gian sinh sống cho dế như vậy sẽ tránh được hao hụt trong chăn nuôi. Các loại giấy đã qua sử dụng hoặc giấy báo được vo lại rất hữu ích để nuôi dế, dưới đáy chậu nuôi được lót 1 lớp giấy sẽ dễ dàng hơn cho lần vệ sinh sau, đồng thời đây cũng là thứ để dế mèn gậm nhấm.
Khay đựng thức ăn: Có thể tận dùng nắp nhựa có sẵn, vỏ hộp sữa chua, các đĩa chấm thức ăn có đường kính từ 4 – 5cm, có vành cao 1cm, hoặc các bạn có thể tự đổ bằng xi măng.
Khay đựng nước uống: tương tự như khay đựng thức ăn. Cần chú ý dù làm khay đựng thức ăn hay nước uống đều phải làm nhám cả hai mặt để dế mèn có thể leo trèo ăn uống dễ dàng.
Đất cho dế đẻ: Thường dùng đất cát, hoặc có thể trộn theo tỷ lệ 2 đất, 1 cát giữ ẩm cho dế đẻ.
Cách nuôi dế từ mới nở đến 15 ngày tuổi: Để vào chậu dế 2 – 3 khay thức ăn (loại khay nhỏ). Do lúc này dế vẫn còn nhỏ nên không được để khay nước vào mà chỉ cho dế uống nước bằng cách phun vào búi cỏ, hoặc lá rau cho dế ăn. Cũng có thể dùng miếng vải tẩm nước cho dế hút nước.
Cách nuôi dế từ 15 đến 45 ngày tuổi: Lúc này dế đã lớn thì có thể đặt khay nước vào cho dế uống được mà không sợ dế bị chết đuối nữa. Thường nên để 1 khay nước, 2 khay thức ăn cho dế. Bên cạnh đó phải tạo chỗ đậu cho dế. Nếu mật độ dế quá đông nên tách bớt ra các chậu nuôi khác, chậu nuôi đảm bảo khoảng 1000 con. Ngoài ra, có thể cho thêm các loại lá rau, cỏ cho dế ăn. Cứ mỗi ngày thay nước cho dế một lần, khay thức ăn thì 2 ngày một lần, nếu còn cám nên bỏ đi và thay cám mới. Tùy theo tốc độ dế ăn mà cho ăn phù hợp đảm bảo không lãng phí. Khoảng 5 – 7 ngày nên vệ sinh chậu nuôi một lần.
Thức ăn cho dế
Có thể tận dụng nhiều loại thực vật như các loại cỏ, lá rau khoai lang, lá sắn, lá đu đủ, rau muống, cùi dưa hấu, dưa chuột… tất cả các rau, cỏ cho dế ăn đều phải được rửa sạch, không có thuốc bảo vệ thực vật đảm bảo vệ sinh cho dế ăn. Các loại rau cỏ phải sạch và không nhiễm hóa chất độc hại.
Ngoài ra có thể cho dế ăn bổ xung các loại cám đã nghiền mịn. Cần đảm bảo dế luôn có nước sạch để uống. Nên dùng bìn xịt hoa phong lan xịt vừa đủ ẩm và đặt một khay nước nhỏ kẻo dế trượt chân té chết vào trong , nếu nuôi với quy mô lớn có thể dùng bình phun nước dung tích lớn cho nhanh. ngày phun 2-3 lần tùy vào thời tiết.
Đặc điểm
Dế mèn (tên khoa học Gryllidae) là một họ côn trùng có chút liên hệ với châu chấu, chúng có thân dẹt và và râu dài. Dế mèn đẻ mỗi lứa nhiều trứng và sau khi đẻ chúng sẽ chết dần. Tuổi thọ của chúng kéo dài từ 2 - 3 tháng tùy thuộc vào từng loại dế.Dế mèn có kích thước trung bình với chiều dài cơ thể khoảng 2cm.
Thích hợp để nuôi kinh doanh, phát triển kinh tế chỉ có 2 loại dế đó là: dế đen, dế trắng vàng. Nuôi 2 loại dế này hiệu quả nhất như sinh trưởng tốt, sống tập trung, thời gian thu hoạch ngắn ngày và có đầu ra tốt nhất. Dế thịt thơm ngon được người dùng ưa chuộng, loại dế này to bằng cỡ ngón tay út, thân mềm, càng không quá cứng nên được các con vật nuôi ăn được.
Trong tự nhiên, dế sinh trưởng, phát triển và sinh sản quanh năm. Dế có bản tính hung hăng nhưng lại thích sống theo bầy đàn, môi trường sống rất đơn giản, không cầu kỳ, có thể ở hang hay trong những đám cỏ khô nên có thể tổ chức chăn nuôi tập trung được, nhưng phải đảm bảo việc chăn nuôi chúng phải tương tự như môi trường thiên nhiên hoang dã.
Công dụng
Trong y học cổ truyền, dế mèn cò vị mặn cay, tính bình và có tác dụng lợi tiểu chữa bí đái. Theo y tổ Tuệ Tĩnh, dế mèn (5 con) sấy khô, tán nhỏ, rây bột mịn, uống với nước bìm bịp sắc lên, uống vào lúc đói có thể chữa bệnh cổ trướng, thở dốc (Nam dược thần hiệu). Theo các tài liệu nước ngoài, dế mèn là loạicôn trùng giàu prôtít, ít chất béo, giúp giảm lượng coletoron trong máu, thịt dế mèn còn được dùng trong các trường hợp chữa chứng nhiễm độc nước tiểu, chữa sỏi thận.
Ngoài công dụng đông y kể trên, trong Dế mèn còn chứa đầy đủ protit, lipit, glucid, nhiều khoáng chất như calci, phospho, kali, mangan, natri, sắt, và các vitamin khác rất cần cho sự phát triển của cơ thể và trí não của cả trẻ em và người lớn.
Cách chọn dế giống và ấp trứng
Dế đực cánh màu nâu pha đen, không bóng mượt, bụng nhỏ hơn, không có máng đẻ trứng. Dế đực kêu để ve vãn con cái.
Dế cái cánh màu đen, bóng mượt, bụng to hơn, có máng đẻ trứng ở phần đuôi, giống cái kim khâu quần áo dể dế cái cắm xuống đất đẻ trứng. Dế cái không kêu được.
Cách chọn dế giống là chọn dế to, khỏe, đầy đủ râu, cánh, chân. Ghép theo tỷ lệ 1 đực với 2 cái. Tùy thuộc hình thức nuôi để các bạn quyết định số lượng dế giống, trong một chậu các bạn để 1 khay nước cho dế uống, 1 khay đất cho dế đẻ, 2 khay đựng thức ăn, 3 cái dế cho dế mèn đậu, trèo leo.
Sau khi dế mọc cánh các bạn chọn và ghép giống.Thường 2 – 3 ngày sau dế cái sẽ bắt đầu đẻ trứng, khi đó các bạn cho khay đất ẩm vào cho dế đẻ. Tôi thường cho khay đất cho dế đẻ từ sáng hôm trước và sáng hôm sau thay bằng khay đất khác. Những ngày đầu tỷ lệ nở của trứng ít hơn do không phải tất cả trứng đều được thụ tinh 100%.
Dế đẻ liên tục đến khi rạc thì chết thường từ 20 đến 30 ngày. Sau khi lấy khay trứng ra xịt nước cho ẩm, sau đó cho vào trong thùng ấp, xếp các khay trứng chồng nên nhau, dùng khăn ẩm để phủ nên.
Nhiệt độ cần cho trứng nở khoảng 24 – 25 độ C. Hàng ngày xịt nước để giữ độ ẩm và nhiệt độ, xịt ngày 2 lần vào mùa hè, 1 lần vào mùa đông, không xịt quá nhiều nước nếu không trứng sẽ dễ bị ung. Sau 9 – 12 ngày dế sẽ nở, các bạn nên ghi nhớ thời gian, hoặc quan sát trứng, để cho khay trứng ra chậu nuôi kịp thời. Trứng nở sau 4 – 5 ngày là hết, bỏ khay đó ra ngoài vét hết đất và tiếp tục cho dế đẻ lần sau. Thường để 2 – 3 khay trứng vào một chậu nuôi như thế vừa đảm bảo mật độ vừa tạo đồng đều cho dế mèn. Không nên để khay trứng đẻ của 2 – 3 ngày khác nhau vào cùng một chậu, như vậy khi dế nở sẽ có con to, con nhỏ không đồng đều.
Kỹ thuật nuôi
Dụng cụ nuôi và hình thức nuôi là khâu quan trọng trong quá trình chăn nuôi dế. Nó không chỉ liên quan đến kinh phí đầu tư trong chăn nuôi mà còn ảnh hưởng đến sản lượng cũng như mức độ hao hụt của dế.
Nuôi trong chậu nhựa: chậu cao 35 – 40cm, đường kính 40 – 50cm, nuôi bằng chậu đỡ tốn diện tích, phù hợp vì giá cả không quá cao, rất tiện ích.
Nuôi trong thùng nhựa: dùng loại thùng 60 lít, nên mua loại có nắp đậy sau đó chọc thủng lỗ nhỏ bằng đầu que diêm lên nắp thùng tạo độ thoáng.
Nuôi trong khay hình chữ nhật và sếp các hộp đè nên nhau để tiết kiệm diện tích phù hợp với nuôi với quy mô lớn. Tuy nhiên đây cũng là hình thức cần đầu tư lớn nhất.
Nuôi trong thùng xốp, thùng bìa cát tông: tuy nhiên cách nuôi này dế sẽ bò được ra ngoài, cắn thủng trốn thoát dễ gây mất mát.
Ngoài ra có thể tận dụng các vật liệu khác để nuôi dế như thùng tôn, thùng gỗ, chum, lu, vại. Rơm, giấy là những vật tạo khoảng không cho dế mèn sinh sống leo trèo, lột xác và trốn tránh kẻ thù. Mỗi lấn lột xác dế rất mèm và thường bị đồng loại cắn, ăn vì thế cần tạo nhiều không gian sinh sống cho dế như vậy sẽ tránh được hao hụt trong chăn nuôi. Các loại giấy đã qua sử dụng hoặc giấy báo được vo lại rất hữu ích để nuôi dế, dưới đáy chậu nuôi được lót 1 lớp giấy sẽ dễ dàng hơn cho lần vệ sinh sau, đồng thời đây cũng là thứ để dế mèn gậm nhấm.
Khay đựng thức ăn: Có thể tận dùng nắp nhựa có sẵn, vỏ hộp sữa chua, các đĩa chấm thức ăn có đường kính từ 4 – 5cm, có vành cao 1cm, hoặc các bạn có thể tự đổ bằng xi măng.
Khay đựng nước uống: tương tự như khay đựng thức ăn. Cần chú ý dù làm khay đựng thức ăn hay nước uống đều phải làm nhám cả hai mặt để dế mèn có thể leo trèo ăn uống dễ dàng.
Đất cho dế đẻ: Thường dùng đất cát, hoặc có thể trộn theo tỷ lệ 2 đất, 1 cát giữ ẩm cho dế đẻ.
Cách nuôi dế từ mới nở đến 15 ngày tuổi: Để vào chậu dế 2 – 3 khay thức ăn (loại khay nhỏ). Do lúc này dế vẫn còn nhỏ nên không được để khay nước vào mà chỉ cho dế uống nước bằng cách phun vào búi cỏ, hoặc lá rau cho dế ăn. Cũng có thể dùng miếng vải tẩm nước cho dế hút nước.
Cách nuôi dế từ 15 đến 45 ngày tuổi: Lúc này dế đã lớn thì có thể đặt khay nước vào cho dế uống được mà không sợ dế bị chết đuối nữa. Thường nên để 1 khay nước, 2 khay thức ăn cho dế. Bên cạnh đó phải tạo chỗ đậu cho dế. Nếu mật độ dế quá đông nên tách bớt ra các chậu nuôi khác, chậu nuôi đảm bảo khoảng 1000 con. Ngoài ra, có thể cho thêm các loại lá rau, cỏ cho dế ăn. Cứ mỗi ngày thay nước cho dế một lần, khay thức ăn thì 2 ngày một lần, nếu còn cám nên bỏ đi và thay cám mới. Tùy theo tốc độ dế ăn mà cho ăn phù hợp đảm bảo không lãng phí. Khoảng 5 – 7 ngày nên vệ sinh chậu nuôi một lần.
Thức ăn cho dế
Có thể tận dụng nhiều loại thực vật như các loại cỏ, lá rau khoai lang, lá sắn, lá đu đủ, rau muống, cùi dưa hấu, dưa chuột… tất cả các rau, cỏ cho dế ăn đều phải được rửa sạch, không có thuốc bảo vệ thực vật đảm bảo vệ sinh cho dế ăn. Các loại rau cỏ phải sạch và không nhiễm hóa chất độc hại.
Ngoài ra có thể cho dế ăn bổ xung các loại cám đã nghiền mịn. Cần đảm bảo dế luôn có nước sạch để uống. Nên dùng bìn xịt hoa phong lan xịt vừa đủ ẩm và đặt một khay nước nhỏ kẻo dế trượt chân té chết vào trong , nếu nuôi với quy mô lớn có thể dùng bình phun nước dung tích lớn cho nhanh. ngày phun 2-3 lần tùy vào thời tiết.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)